Tên thật: Nguyễn Thị Kim Cương
Sinh ngày: 25 tháng 1 năm 1937
Cha: Nguyễn Phước Cương (bầu gánh Đại Phước Cương)
Mẹ: Lê Thị Nam (Nghệ sĩ Nhân dân Bảy Nam)
Tôn giáo: Phật giáo (pháp danh: Từ Huệ)
Nghệ sĩ Nhân dân Kim Cương là một nghệ sĩ nổi tiếng người Việt Nam. Bà được mệnh danh là "Kỳ nữ" trong giới sân khấu Việt Nam và được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam chính thức xác nhận kỷ lục là "Nghệ sĩ viết nhiều kịch bản kịch nói nhất Việt Nam". Bà hiện nay là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VII, Ủy viên Hội đồng Tư vấn về lĩnh vực Văn hoá - Xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận nhiệm kỳ 2009 - 2014; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc TP. Hồ Chí Minh khóa IX, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Văn hóa và Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh.
Thân thế
Nghệ sỹ Kim Cương có tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Cương. Theo soạn giả Nguyễn Phương, bà sinh ngày 25 tháng 1 năm 1937, tại Sài Gòn. Một số tài liệu ghi năm sinh và nơi sinh của bà không thống nhất. Thân phụ của bà là ông Nguyễn Phước Cương, bầu gánh hát Đại Phước Cương, và nghệ sĩ Bảy Nam. Bà có người anh ruột là danh hề Ngọc Trai và em gái ruột tên là Kim Quang. Bà là cháu nội của vua Thành Thái.
Sinh ra trong gia đình nghệ thuật, bà cố, bà nội và cha ruột đều làm bầu gánh, bên mẹ có 11 người cậu dì thì 4 người nổi danh là Năm Phỉ, Bảy Nam, Chín Bia, Mười Truyền, bà đến với sân khấu từ lúc mới sinh được 10 ngày tuổi trong vai con của Quan Âm Thị Kính. Với "vai diễn" đầu đời này, bà được vinh hạnh "diễn" trong dịp mừng thọ Thái hậu Từ Cung với "đạo cụ" là một bình sữa.
Nhọc nhằn con đường nghệ thuật
Sự nghiệp diễn xuất đến sớm, bà nhanh chóng trở thành đào non trong đoàn Đại Phước Cương, cùng cha mẹ và các thành viên trong đoàn đi lưu diễn khắp nơi. Vai diễn chính thức đầu tiên của bà là vai Na Tra trong vở "Na Tra lóc thịt", do chính mẹ bà viết kịch bản.
Bà nổi tiếng trong những vai kịch buồn rơi nước mắt hay những vai dí dỏm. Giữa thập niên 1950, ký giả Nguyễn Ang Ca đặt biệt hiệu "kỳ nữ" cho bà, từ đó dân chúng biết đến danh hiệu Kỳ nữ Kim Cương.
Bà từng soạn nhiều kịch bản kịch nói với bút danh Hoàng Dũng, về sau từng đi tu nghiệp Bulgaria ngành đạo diễn.
Ngoài ra, bà còn làm Phó chủ tịch Hội Bảo trợ người tàn tật, trẻ em khiếm thị, trẻ em mồ côi Thành phố Hồ Chí Minh. Bà cũng là một Phật tử với pháp danh Từ Huệ.
Giải thưởng tiêu biểu
Nghệ sỹ nhân dân (2011)
Hoạt động nghệ thuật
Cải lương
Điêu Thuyền (trong vở Phụng Nghi đình)
Giai nhân và ác quỷ
Thoại kịch
Diệu (trong vở Lá sầu riêng)
Bê, Bích (trong vở Dưới hai màu áo)
Trà hoa nữ (trong vở Trà hoa nữ)
Tania (trong vở Tania)
Nhân danh công lý
Lan và Điệp
Biển động
Lôi Vũ
Bông Hồng cài áo
Phim ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Lòng nhân đạo
Ngọc Bồ Đề (1956)
Bích câu kỳ ngộ
Lưu Bình - Dương Lễ (1957)
Lý Chơn Tâm cỡi củi
Ám ảnh
Đôi mắt huyền (1960)
Bẽ bàng (1961)
Mưa rừng (phim) (1962)
Loan mắt nhung (1970):
Biển động (1971)
Mưa trong bình minh (1972)
Chiếc bóng bên đường (1973)
Tứ quái Sài Gòn (1973)
Người chồng bất đắc dĩ (1974)
Đất khổ (1974)
Nhạc lòng năm cũ
Lá sầu riêng (1993)
Trà hoa nữ (1994)
Nụ hôn đầu xuân
Phụng Nghi Đình
Giọt máu rơi
Dưới hai màu áo
Người tình trễ xe
Sắc hoa màu nhớ (1993)
Huyền thoại mẹ
Người mua hạnh phúc
Trương Chi - Mỵ Nương
Các kịch bản do Hoàng Dũng (Kim Cương) viết
Lá sầu riêng
Dưới hai màu áo
Trà hoa nữ
Tôi làm mẹ
Vực thẳm chiều cao
Bông hồng cài áo
Source: wikipedia |
|