Ngày Đăng: 03 Tháng 08 Năm 2016 Từ cậu bé tự ti vì chiều cao khiêm tốn và gia đình không hạnh phúc, Matt Damon đã trở thành sao hạng A của Hollywood sau 28 năm theo nghiệp diễn.
| Điệp viên Jason Bourne trong loạt phim về Bourne (2002, 2004, 2007, 2016) Được dựng lại từ tiểu thuyết của nhà văn Robert Ludlum, nhân vật Jason Bourne có thân thế bí ẩn. Tên thật là David Webb, anh tình nguyện tham gia vào một thí nghiệm đặc biệt để trở thành người hùng toàn năng. Tuy nhiên, tổ chức này biến anh thành sát thủ với cái tên Jason Bourne và bắt đầu hành trình đuổi bắt nghiệt ngã. Khác với một James Bond hào hoa phong nhã của 007, điệp viên Jason Bourne được yêu thích vì sự gần gũi, chân thực. Nếu Bond cậy nhờ nhiều vào đồ chơi công nghệ thì Bourne lại cho khán giả thấy một điệp viên thật sự là gì - từ cách tính toán từng bước chân, đường đạn đến kế hoạch chi tiết nhất, cái nắm bắt tình thế chuẩn xác nhất. Ban đầu, Brad Pitt, Matthew McConaughey và Sylvester Stallone được tiến cử vào vai Jason Bourne, nhưng cuối cùng đạo diễn Doug Liman của phần một đã chọn Matt Damon vì tin rằng tài tử đủ chiều sâu để hiểu nhân vật. Sau nhiều thăng trầm trong nghề, Damon nhận ra đây mới chính là vai diễn để đời của anh và hào hứng mời gọi đạo diễn Paul Greengrass cùng trở lại với Jason Bourne phiên bản 2016. |
| Phi hành gia quả cảm Mark Watney trong "The Martian" (2015) Bị thương nặng sau trận bão cát khi đang cùng nhóm thám hiểm NASA lên sao Hỏa, Mark bị bỏ rơi vì đồng đội tưởng anh đã chết. Một mình chống chọi với thời tiết khắc nghiệt, Mark đã có lúc sợ chết nhưng ý chí và niềm tin giúp anh từng bước nỗ lực. Anh vận dụng các kỹ năng để trồng cây trên mảnh đất khô cằn. Mark tìm thấy niềm hy vọng khi chứng kiến những mầm xanh đầu tiên nhô lên. Lối diễn khi tưng tửng lúc trầm lắng của Matt Damon trong 140 phút phim được thể hiện linh hoạt, lôi cuốn người xem. Tuy để vụt mất tượng vàng Oscar đầu năm nay về tay Leonardo DiCaprio, Damon bảo chứng vị thế của anh ở Hollywood bằng doanh thu 630 triệu USD của phim. |
| Gã nhân tình Scott Thorson trong "Behind the Candelabra" (2013) Mới 18 tuổi, Scott đã nổi tiếng là người yêu của nam nghệ sĩ piano Liberace. Để làm vui lòng nhân tình hơn mình 40 tuổi, Scott chấp nhận phẫu thuật thẩm mỹ cho giống Liberace thời trẻ và sống dựa dẫm vào đồng tiền của ông. Matt Damon vào vai Scott "rất ngọt" dù lúc ấy anh đã ngoài 40. Tài tử cũng gây bất ngờ ở những cảnh khoe cơ bắp, ăn mặc diêm dúa và đặc biệt cảnh mùi mẫn với diễn viên đồng giới. Chính nguyên mẫu Scott Thorson ngoài đời cũng dành lời khen nồng nhiệt cho Damon. Lần thử sức phá bỏ hình tượng nam tính này mang về cho Damon một đề cử Quả Cầu Vàng, một đề cử giải BAFTA. |
| Chính khách David Norris trong "The Adjustment Bureau" (2011) Trong lúc chờ đọc diễn văn xin rút khỏi bầu cử Quốc hội Mỹ, David tình cờ gặp Elise - vũ công xinh đẹp. Yêu ngay phút đầu, họ dính lấy nhau chỉ sau một nụ hôn vội, vài ánh nhìn say đắm. Thế nhưng, tổ chức được gọi là Cục Chỉnh lý đã can thiệp vào mối tình của David và Elise với lý do anh phải làm theo lập trình có sẵn và nên chia tay Elise để bảo toàn tánh mạng. Không chùn bước, David và Elise “cải số” để được chung sống bên nhau. Sở hữu đôi mắt có hồn, Damon giúp nhân vật David uyển chuyển giữa tính giật gân và lãng mạn trên nền kịch bản lý tưởng. Đạo diễn George Nolfi và Damon vốn là cộng sự ăn ý trong Ocean's Twelve, The Bourne Ultimatum nên ngay từ đầu, vai David đã được “đo ni đóng giày” cho Damon. |
| Tiến sĩ Mark Whitacre trong "The Informant!" (2009) Mark Whitacre là tiến sĩ kiêm ngôi sao mới nổi tại công ty ADM những năm 1990 nhờ tài quản lý. Ông cũng là CEO đầu tiên dám lật tẩy các vụ điều chỉnh giá cả phi pháp của các tập đoàn lớn, bằng cách thu thập hàng trăm cuộc video và điện thoại rồi gửi cho FBI. Để hóa thân cho đúng hình tượng nhân vật, Matt Damon tăng cân bằng cách ăn rất nhiều hamburger, pizza và uống bia đen. Vai diễn mang về cho tài tử một đề cử Quả Cầu Vàng hạng mục "Phim hài/ nhạc kịch". Tạp chí People và Variety khen ngợi khả năng của Damon, nhận xét anh “đã thấu hiểu Mark Whitacre” và diễn xuất của anh là điểm sáng trong phim. |
| Cảnh sát biến chất Colin Sullivan trong "The Departed" (2006) Trong bộ phim làm lại tác phẩm Vô gian đạo của Hong Kong, nhân vật Colin Sullivan của Matt Damon là kẻ được bố già Francis Costello (trùm tội phạm gốc Ireland) huấn luyện để trở thành tay trong, chuyên phục tùng cho băng đảng của mình. Tốt nghiệp loại ưu trường đào tạo cảnh sát, Colin thăng tiến nhanh chóng nhưng phải sống giả dối và bất an vì lo sợ bại lộ tung tích. Colin gặp phải đối trọng của mình là điệp viên Billy Costigan - một kẻ thông minh và tài giỏi chẳng kém. Để chôn vùi thân thế, Colin có những quyết định đáng sợ về sau, khiến cả Billy và Francis trở tay không kịp. Diễn xuất của Matt Damon trong phim đôi lúc bị chê là “lên gân” nhưng những khoảng lặng lại được anh lột tả thuyết phục hơn bạn diễn Leonardo DiCaprio. So với vai diễn nguyên mẫu của Lưu Đức Hoa, Damon thổi hồn riêng vào nhân vật phản diện của mình nét lạnh lùng và đáng sợ. |
| Mật vụ Edward Wilson trong "The Good Shepherd" (2006) Từ thuở nhỏ, Edward đã là kẻ thông minh hơn người, lại có tâm hồn nhạy cảm, yêu văn thơ, kịch nghệ. Nổi bật khi là sinh viên trường Yale, Edward được mời vào hội “Đầu lâu” quy tụ nhiều ngôi sao học đường sau này làm Tổng thống, nghị sĩ Mỹ và Phòng Chiến lược OSS - tiền thân của CIA. Từ thanh niên đến lúc trưởng thành, Edward luôn dành trọn thời gian cho công việc, chẳng màng tới cô vợ (Angelina Jolie) mà anh lấy vì nhân nghĩa hơn tình yêu. Trong màu áo xám, khuôn mặt nghiêm nghị, ít lời, luôn dùng ánh mắt quan sát, Matt Damon tiếp tục chứng tỏ bản lĩnh hóa thân. Tuy mạch phim khá chậm và nhiều tình tiết nặng nề, The Good Shepherd vẫn là một phim về điệp viên đáng nhớ trong sự nghiệp của Damon. |
| Cao bồi John Grady Cole trong "All the Pretty Horses" (2000) Sinh ra ở miền đồng quê êm đềm, John luôn có cảm giác mình thuộc về nơi khác. Khi người ông qua đời, John quyết định bán trang trại và rủ anh bạn thân Lacey Rawlins cưỡi ngựa đến Mexico. Cả hai sau đó trở thành người làm công cho gia đình giàu có - nơi John đem lòng yêu cô con gái Alejandra xinh đẹp (Penélope Cruz) nhưng không được chấp thuận. Biến cố xảy ra khi John và Lacey bị giam trong ngục. Bộ phim được đầu tư kinh phí khá lớn nhưng lại gặp thất bại vì nhà sản xuất Harvey Weinstein yêu cầu cắt phim từ ba tiếng còn hai tiếng và thay cả nhạc nền. Matt Damon đã bức xúc về việc này. Dù phim bị chê, diễn xuất của Damon vẫn nhận được đề cử của Hiệp hội phê bình Las Vegas. |
| Thiên tài dối trá Tom Riley trong "The Talented Mr. Ripley" (1999) Là chàng trai có biệt tài giả chữ ký và giả dạng người khác, Tom được nhờ đến Italy tìm gã công tử nhà giàu Dickie Greenleaf đưa về New York. Thế nhưng khi đặt chân đến thành phố cổ kính, mơ mộng, Tom đã đổi thay ý định và thực hiện hàng loạt những chiêu trò để thỏa mãn lối sống hưởng thụ. Hồi Damon vào vai diễn năm 1999, có ý kiến đánh giá anh quá trẻ so với hình dung về nhân vật Tom Ripley trong tiểu thuyết. Nhưng nét diễn mộc mạc và nụ cười quyến rũ đã giúp anh che đi khuyết điểm. Bài hát My Funny Valentine trong phim cũng do chính anh thể hiện. |
| Thiên tài ẩn dật Will Hunting trong "Good Will Hunting" (1997) Will sinh ra ở phố nghèo Boston với tuổi thơ bất hạnh, cha mẹ ruồng bỏ, học hành không đến nơi đến chốn. Lớn lên thiếu định hướng, Will làm quen với Chuckie Sullivan và nhóm du đãng đường phố. Uống rượu, phá phách, cướp giật, đánh nhau… khiến Will không đủ năng lực làm việc đàng hoàng. Anh may mắn được nhận làm chân gác cổng cho trường MIT. Dù hư đốn, Will lại có bộc óc thiên tài với trí nhớ siêu việt. Tài năng của Will dần được phát hiện và cuộc đời anh thay đổi từ đó. Ngoài đóng chính, Matt Damon cũng viết kịch bản chung với Ben Affleck. Cặp sao sau đó cùng nhận giải "Kịch bản hay nhất" ở Oscar 2000 trong khi Damon nhận thêm đề cử "Nam chính xuất sắc". Good Will Hunting năm đó thắng lớn với 225 triệu USD, đưa Damon lên hàng ngôi sao. |
Sources: vnexpress |
|
|